VĂN HỌC NHÀ TRƯỜNG
Chùm truyện ngẮN CỦA NGUYỄN PHAN HÁCH
hOA ANH ĐÀO LẠI NỞ
Bà lão Dan sống một mình trong rừng với túp lều bằng
cành lá rễ cây đan xen tầng tầng lớp lớp như cái tổ chim. Mái và tường mùa thu
xây bằng lá vàng, mùa xuân xây bằng hoa hồng gai và cánh bướm ken dầy. Những
con chim rừng về đây, đậu đầy bậc thềm, và bay nhởn nhơ, tiếng hót đan quện.
|
Bà
lão đã quá già, da nhăn nheo như tấm lưới. Thỉnh thoảng bà vẫn xuống thị trấn
gần đấy mua bán vài thứ, nhưng chủ yếu là sống ở đây. Hoa quả rừng chả thiếu
gì. Củ rừng dưới đất, chỉ việc đào lên. Mật ong chảy dòng dòng trên cây, cá
dưới suối bơi lội…
Bà sống mùa nào thức nấy, cùng với một
con chó rừng tự nguyện về đây canh giữ lũ cáo cầy sục sạo.
Xưa
kia, bà lão là một cô gái xinh đẹp dưới thị trấn. Những người đàn ông đã lừa
dối bà, xô đẩy bà trên đường đời, nên bà thấy cuộc đời thật đáng chán, về già
quyết định xa lánh tất cả, một mình về đây, sống với chim muông cỏ cây hoa
lá...
Mỗi
sáng bà lão Dan thường chơi với chim chóc ngoài thềm một lúc rồi ra sân. Ở đấy
có một cây Anh Đào đã già, gốc to lớn xù xì, lá còi cọc úa vàng, nhiều năm nay
chẳng bao giờ ra hoa được nữa. Nó cũng giống như bà…
Tháng
ba năm ấy nắng trong vắt chan chứa khác thường, bà lão Dan đang ngồi dưới gốc
Anh Đào, có một cánh hoa rơi xuống vạt áo, hồng tươi, thơm nức, mong manh. Bà
kinh ngạc nhìn lên thì thấy những cành già xù xì rêu mốc mọi hôm, giờ thành
tươi xanh lấm tấm trổ hoa. Thời gian đã quay ngược và cây Anh Đào đã non tơ trở
lại ư? Bà lão đi quanh gốc cây, giật mình hơn khi thấy bóng hình mình dưới vũng
nước, những sợi tơ đan da mặt biến đi đâu mất cả. Hiện hình dưới kia là một
gương mặt mịn màng với làn tóc đen, và đôi mắt không còn mờ đục...
Đúng
là thời gian đã bắt đầu quay ngược từ bao giờ mà bà không biết. Bà lão vứt cái
gậy, vì không cần dùng đến nữa... Cho đến một ngày kia, thời gian quay ngược đã
đủ vòng của nó, bà lão ra suối tắm, cởi bỏ bộ áo quần nhàu nhĩ, hiện lên một
thân hình như tượng đá trắng, cánh tay, bờ vai nuột nà vằng vặc trăng rằm…
Cô gái Dan bơi ngược chiều suối chảy. Sóng ào
ào trắng xóa, nhưng không cuốn trôi được sức trẻ. Cô vẫn lao lên, tay bíu vào
các ngọn nước, vượt được cả thác. Thác lũ thời gian chả cuốn được cô…
Cây Anh Đào trước cửa lều bà lão Dan bây giờ
đã nở bung một rừng hoa, che rợp khoảng trời…
HỒN CÂY
Gia
trang cố hương chúng tôi ở một miền đồi có khe suối và vườn hoang đầy cây cổ
thụ.
Một lần vào vườn hoang tôi tha thẩn dạo chơi đêm trăng,
nghe chim đồi hót và tiếng suối chảy róc rách.
Soi
bóng bên suối có một cây Liễu
yểu điệu, lá rủ lướt thướt, bên cây Đào
hoa nở rực rỡ và cây Hạnh
vươn cành mềm mại như cánh tay thiếu nữ đang cầm những nhành hoa phớt hồng.
Đêm
về khuya, ánh sương bàng bạc, tôi thấy hồn ba cây chập chờn hiện thành ba cô
gái xinh đẹp.
Liễu
có mái tóc lướt thướt. Đào có gương mặt tươi hồng, và Hạnh có màu da trắng như
tuyết.
Ba
cô nói thì thầm gì với nhau, tôi nghe không rõ. Một cơn gió mạnh ào qua, hình
ba cô lại tan nhòa, chìm vào ba cây Đào, Liễu, Hạnh bên suối.
Sáng
hôm sau, dưới ánh sáng mặt trời chói chang, tôi lại vào vườn hoang. Ngắt nhành
liễu, vò nhàu lá thấy mùi hương mái tóc con gái. Ngắt bông hoa Đào, hoa Hạnh
thấy mùi phấn thơm trên má thiếu nữ…
Cuộc đời tao loạn, xô đẩy tôi phải đi xa biệt khỏi cố
hương. Thời gian trôi, đến khi tóc bạc, tôi mới có dịp trở lại ngôi nhà rêu
mốc, nấm mọc ngoài thềm. Khu vườn hoang xơ xác đi nhiều, nhưng ba cây Đào,
Liễu, Hạnh vẫn còn, dù lá sắt lại, hoa cỗi cằn.
Tôi
thức với đêm vườn, và nửa đêm, trong ánh sương bàng bạc, lại thấy hồn cây xuất hiện. Nhưng
lần này là ba bà già tóc
bạc, da nhăn.
Tôi
buồn bã lại gần nói:
-
Có lẽ nào cuộc đời ba cô gái trẻ đã phai tàn quẩn quanh trong khu vườn hoang
này.
Ba
bà già nói:
-
Biết làm sao được. Chân chúng tôi là những rễ cây Đào, Liễu, Hạnh cắm chặt
trong lòng đất.
Tôi
nói với bà già cây Hạnh:
- Bà có biết ngày xưa nàng Dương Quý
Phi đã bị ép thắt cổ chết trên cành cây Hạnh ở Mã Ngôi. Và hồn nàng đã nở nên
những bông hoa Hạnh rớm máu.
-
Không. Tôi không biết. Đó là cây Hạnh ở xứ nào. Còn tôi, chỉ là cây Hạnh trong
vườn hoang hẻo lánh này thôi…
Tôi
chia tay ba bà già Đào, Liễu, Hạnh, mà mùi lá đã nhạt thếch, hình hài đã xác
khô…
Tôi
có việc lại phải xa cố hương. Một ngày kia, trở về, tôi lại vào vườn hoang tìm
gặp hồn cây Đào, Liễu,
Hạnh dù biết họ đã già.
Tôi đến bên bờ suối. Bờ suối trơ trụi. Ba cây Đào, Liễu,
Hạnh giờ chỉ còn là ba gốc khô nham nhở vết rìu chặt. Tôi đợi mãi, đợi mãi,
không có bóng hình ai, ngoài bóng hình tôi với con suối chảy rì rào…
MÙA
XUÂN VỀ BẢN
Thời
gian thấm thoát kể từ buổi tôi đến bản Vua Bà đã đầy năm. Tôi đã thấy mùa hè
trong rừng với mùi mật vả dại
thơm ngào ngạt trong thứ ánh nắng ríu rít nhảy nhót từng giọt qua cái sàng xanh
vĩ đại của các tán cây đầy gió lay động. Tôi đã thấy mùa thu rừng với những con
nai vàng rón rén trên các thảm lá khô, mỗi bước đi lá kêu như bánh đa vỡ dưới
chân. Mùa thu, trám rừng nhiều lắm, chín trên cành vàng rực như những ngôi sao
chiều. Và những quả thu muộn mằn chín một mình trong rừng không ai hay tới,
cuối cùng chỉ còn biết âm thầm rụng xuống gởi lại hạt già cho tầng lá mục ấp ủ.
Tôi đã thấy mùa đông rừng với những vạt sương như những tấm khăn voan trùm kín
mít các ngọn cây. Các cây rừng thành những cô dâu trong lễ cưới, che mặt suốt
đêm tân hôn cho đến lúc sáng bạch vẫn không chịu bỏ ra. Khi những cơn gió bấc
đầu mùa về, cả đại ngàn reo như sóng bể. Đại ngàn càng trở nên trập trùng dữ
dội. Những con gấu lười biếng lông xù lên đi trốn mùa đông. Các cánh rừng dẻ
gai, hạt rơi tí tách suốt đêm ngày như cơn mưa không dứt.
Mùa đông rừng thật là dài ghê gớm. Đêm đêm lửa sưởi bập
bùng trong bếp bản Vua Bà, mùi sắn lùi, hạt dẻ nướng thơm phức, và người ta
thức trằn trọc trong những tấm chăn sui khô cứng, mong cây đào trước nhà trổ ra chùm nụ phớt hồng. Những nụ phớt
hồng bé xíu như chiếc cúc áo. Cúc của tấm áo mùa xuân.
Tôi
gặp mùa xuân trên bản Vua Bà, vào một buổi sớm. Trời vẫn còn lạnh lắm và những
thân cây vẫn còn run rẩy. Nhưng đã có một con chim vàng anh bay đến. Vàng anh
cất tiếng hót. Ngắn thôi, nhưng réo rắt. Rồi nó vù bay, vội vã chợt đi như chợt
đến. Riêng tiếng hót thì ở lại, âm vang mãi trong lòng. Tôi ngẩn ngơ luyến tiếc
con vàng anh mãi. Tiếng hót đó đã đánh thức tôi đang co ro chìm đắm trong rét
mướt của mùa đông, giật mình chạy lại với mùa xuân.
Có
lẽ con vàng anh đã đánh thức cây đào như đánh thức tôi. Mà không phải chỉ cây
đào, nó đánh thức cả đại ngàn, cả không gian và mặt đất. Vừa mới hôm trước đại
ngàn còn rền rĩ gió bấc, mặt trời còn đang trắng bệch ẩn sau những tầng mây
ngổn ngang như ẩn sau tấm chăn bông ủ ấm, vậy mà ngày một ngày hai, trời đã
trong dần. Những bụi mưa hoa long lanh nhẹ đến nỗi không rơi xuống đất được mà
cứ bay lửng lơ. Những chuỗi cườm nhỏ xíu, lõi bằng mạng nhện, hạt bằng các giọt
mưa ngũ sắc, ở đâu thả xuống đầy ngọn cỏ lá cây.
Mùa
xuân ở bản Vua Bà thật là vui. Tiếng khèn bè, tiếng tiêu chuốt trong lòng những
ống trúc quý dìu dặt suốt đêm. Bóng đêm mùa xuân cũng đen óng ánh ảo huyền, và
càng khuya càng ngào ngạt mùi thơm của hương lá hương cây. Đêm xuân, những con
chim hót đến khiếp. Chúng ngây ngất cái gì. Không chịu ngủ, cứ hót thâu đêm
suốt sáng. Có những con chim mái sau mùa xuân; người rạc đi chỉ còn cái xác ve,
lúc bấy giờ mới chịu lui lủi, lặng lẽ đi kiếm ăn cùng chồng con..
MỘT TẤM GƯƠNG
Nắng
sớm chứa chan. Thằng Quyền bước lang thang vô định giữa triền đồi. Cỏ ngút mắt.
Cỏ và cỏ. Chưa bao giờ nó thấy lòng buồn chán rã rời như thế.
Một
con sếu bay qua bầu trời rồi mất hút. Sếu đi về đâu nhỉ? Cho ta theo với.
Thằng Quyền trèo lên đỉnh đồi nhìn quanh. Nhà nó kia, xa
xa. Mái gianh vàng ẩn trong lùm cây nhỏ. Khói bếp màu lam bay trông thật ấm
cúng thanh bình. Vậy mà bây giờ nó không muốn về đấy nữa. Gần đây, bố mẹ đều
ghét bỏ nó. Hơi một tý là bố vớ cái roi. Còn mẹ thì luôn so sánh nó với lũ trẻ
trong xóm “Chân núi”, đứa nào cũng giỏi, cũng tài, chỉ riêng nó là đồ vô duyên,
vô tích sự, vô giá trị. Có đúng thế không nhỉ, hay là yêu nên tốt, ghét nên
xấu?
Thằng
Quyền đã đi khá xa. Đường xe lửa xuyên núi chênh vênh trước mặt. Một bên là
suối sâu, hun hút, nước réo ào ào tung bọt trắng xóa. Một bên là núi đá lởm
chởm.
Đường
ray lượn vòng uốn khúc theo sự ngoắt ngoéo nhô ra thụt vào của sườn núi. Bỗng
thằng Quyền đứng sững. Trước mặt nó là một cây cổ thụ khổng lồ từ sườn núi đổ
xuống lấp cả khúc đường ray. Quyền nhớ sáng nay có cơn
lốc núi dữ dội. Vùng này thường hay thế. Có khi giữa trưa nắng êm
ả, mà lốc núi thình lình xoáy tít bốc cả mái nhà bay đi. Ngắm bộ rễ tua tủa
khủng khiếp bị lật tung của đại thụ, Quyền chặc lưỡi: - Thế mới biết đâu phải
cái gì cũng bền chắc mãi mãi được.
Thằng
Quyền định quay lưng, bỗng nhiên một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu: chốc nữa có
một con tàu qua đây, vướng víu ngoắt ngoéo, không nhìn thấy, không phanh kịp,
húc vào cái cây đổ khổng lồ này, sẽ lao xuống vực tan xác.
Từ bao năm nay, Quyền đã quen tiếng còi tàu văng vẳng thân
yêu. Buổi sáng tàu thường từ dưới xuôi lên. Và như thế có nghĩa là tàu sắp đến.
Phải sang phía bên kia, đi tiếp xuống, báo hiệu cho tàu dừng.
Vượt
qua chướng ngại này đâu phải dễ. Thằng Quyền bám vào những cành cây leo lên,
tụt xuống chuyền qua như con vượn. Sểnh tay một tý, có thể ngã, và ngã đây là
ngã xuống suối tan xác chứ chẳng chơi. Ai bắt nó dấn thân vào hiểm nguy trong
khi lòng nó đang buồn chán rã rời?
Nửa giờ sau, mồ hôi ướt đẫm, quần áo te tướp, Quyền qua
được vùng cây đổ. Bây giờ nếu đứng bên đường vẫy tay thì có con tàu nào chịu dừng
lại? Đã có biết bao nhiêu câu chuyện trẻ con có “trò chơi” ném đá lên tàu. Và,
những người lái tàu thường vốn ác cảm với những thằng nhóc lảng vảng bên đường
ray. Quyền cảm thấy sờ sợ. Nếu con tàu “hiểu nhầm” mình là đứa táo tợn ngoại
hạng, dám đứng giữa đường ray, chờ tàu sát đến gần mới chạy dạt ra, nó sẽ không
phanh, cả đoàn tàu sẽ rầm rập lao vào mình khi mình không chạy kịp. Làm thế nào
bây giờ? Quyền vừa đi vừa thầm nghĩ. Đúng lúc ấy đất dưới chân nó rung chuyển
nhẹ, ầm ầm truyền dẫn. Rồi tiếng còi tàu từ xa vọng tới. Không thể đắn đo tính
toán thêm gì được nữa. Phải liều. Thằng Quyền nhảy bổ vào đứng giữa đường ray,
cởi quần áo, tay cầm áo, tay cầm quần, phất loạn xạ. Phải như thế mới gây ấn
tượng.
Sớm
nay, một buổi sáng đẹp trời. Con tàu số hiệu M125 từ thành phố dưới xuôi chở
năm trăm hành khách lên hai tỉnh lỵ miền núi. Nó sắp đi vào một vùng sơn thủy
hữu tình.
Người
lái đưa mắt nhìn về phía trước. Cái gì kia? Ông giật thót. Một thằng bé đang
nhảy loi choi. Khoảng cách con tàu và đứa trẻ không còn xa. Nhưng vẫn đủ để
người lái từ từ kéo phanh mà không làm nó chùn lại như con sâu đo…
…
Câu chuyện một thằng bé miền núi cứu một đoàn tàu năm trăm hành khách khỏi rơi
xuống vực ngày ấy được người ta viết thành một bài văn đăng báo. Có lẽ vì ý
nghĩa lớn lao của sự kiện, cũng như bài văn quá hay nên đã được đưa vào sách
giáo khoa tiểu học.
Mấy
chục năm qua, bao thế hệ đã học bài văn nêu gương sáng ấy. Hình ảnh thằng Quyền
đã đi vào tâm trí bao người, thành một biểu tượng của đạo đức vì mọi người, và
mãi mãi chẳng bao giờ phai mờ. Bố mẹ thằng Quyền đã mất từ lâu. Nhưng ngày ấy
còn kịp nhận thấy, hóa ra con mình cũng là người có ích chứ đâu đến nỗi nào.
Nguồn: Tạp chí
Văn Mới số 7
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét